Diện châm là phương pháp châm cứu vào
các huyệt trên mặt để phòng hay chữa bệnh. Cách đây hàng ngàn năm người Trung
Hoa phát hiện ra hệ thống kinh lạc trên cơ
thể.
Kinh lạc là hệ
thống đường chằng chịt trên cơ thể nối từ trong (các tạng) ra ngoài đầu các chi
(kinh âm) và từ đầu các chi vào trong cơ thể (các phủ) (kinh dương). Các kinh
đều qua vùng đầu mặt hoặc có liên ệ với vùng đầu mặt.
Lạc là các
đường ngang nối các kinh có liên quan giữa tạng và phủ đó. Tác dụng của hệ kinh
lạc là để lưu thông khí huyết, kinh lạc cũng là đường dẫn thuốc, tà khí vào
trong hay khi ta đuổi tà khí ra ngoài. Kinh lạc có tác dụng điều khiển và điều
hoà hoạt động của các tạng phủ.
Trên đường
kinh có các điểm ra vào của kinh khí gọi là Huyệt. Khi công năng các tạng phủ
rối loạn cũng có thể biểu hiện ra các huyệt tương ứng, ngược lại châm cứu vào
các huyệt đó có tác dụng điều chỉnh lập lại hoạt động bình thường của các tạng
phủ.
Ngoài huyệt
trên đường kinh người Trung Hoa cũng phát hiện trên cơ thể có nhiều huyệt khác
nữa, số huyệt trên 14 đường kinh chính là: 361*2= 722 huyệt. Tổng số huyệt trên
cơ thể con người khám phá ra cho tới nay là trên 1400 huyệt.
Ngoài các
huyệt trên thân thể, khi ta châm cứu vào đó gọi là thể châm thì người Trung Hoa
cũng phát hiện ra những vùng đặc biệt, có các huyệt đặc biệt nó đại diện cho
các tạng phủ và cơ quan trên cơ thể.
Thí dụ: Trên
loa vành tai các điểm đại diện được bác sỹ người Pháp nối lại thành 1 hình bào
thai lộn ngược mang tên ông – Gọi là sơ đồ Paul Nogier. Các thầy thuốc cũng
thường dùng các huyệt trên loa vành tai để tìm vị trí bệnh và châm vào đó để
điều trị bệnh – gọi chung là Nhĩ châm. Ở bàn tay – bàn chân cũng có các huyệt
đại diện cho các tạng phủ - khi tác động vào đó gọi là phương pháp bàn tay
châm, bàn chân châm.
Trên đầu trên
mặt, trên mũi, mắt cũng có các huyệt đại diện cho các cơ quan khi ta tác động
khi ta tác động vào đó gọi là Đầu châm, diện châm, tỵ châm… Giới thiệu như vậy
để cách đây hàng ngàn năm con người đã rất tài giỏi, phát hiện ra huyệt vị trên
cơ thể để phòng chữa bệnh cho con người cùng với việc tìm ra các vị thuốc để
bảo vệ sự sống.
Mỗi phương
pháp có sở trường sở đoản, các thầy thuốc tuỳ thích mà dùng nhiều thể châm, hay
nhĩ châm, đầu châm, diện châm mà có kinh nghiệm riêng trong việc linh hoạt sử
dụng các huyệt để điều chỉnh sự rối loạn công năng của các tạng. Cũng xin nói ngay hệ kinh lạc và hệ thống huyệt
hoàn toàn khác với hệ thần kinh, mạch máu trên cơ thể người mà y học hiện đại
phát hiện.
Tại sao châm
cứu có tác dụng trong phòng và chữa bệnh, thì nhiều nhà khoa học cố gắng chứng
minh: Nào là châm cứu làm biến đổi thể dịch, tăng hồng cầu, tăng bạch cầu, tăng
đường, tăng corticoid, tăng endorphine trong máu. Châm cứu điều chỉnh hoạt động
của thần kinh giao cảm và phó giao cảm – Châm cứu tác động vào các cơ quan qua
tiết đoạn thần kinh…Tất cả các giải thích trên đúng trong trường hợp này nhưng
lại không đúng trong trường hợp khác. Theo cách giải thích của Đông y châm cứu
có tác dụng là do nó có khả năng điều khí. Giải thích như vậy còn khó hiểu
nhưng nó lại đúng cho mọi trường hợp. Cũng vì vậy ta hiểu giá trị của châm cứu
là hữu hạn chứ không vô hạn. Nghĩa là có trường hợp dùng châm cứu được, cũng
nhiều trường hợp dùng không có kết quả.
Về Diện châm,
trong “Linh khu – Ngũ sắc” thì mặt có
thể chia thành các khu vực: vùng lục phủ ngũ tạng, vùng cơ bắp…”Ngũ sắc thể
hiện ra từng vùng ở má, quan sát nó nổi hay chìm để biết độ nông sâu, quan sát
độ thấm mềm thì biết thành hay bại, Quan sát độ tản ra hay bó gọn vào thì biết
được gần xa”. Đây cũng là phương pháp “quan sát ngoại ứng để biết nội tạng”.
Trong học
thuyết kinh lạc đã chỉ rõ: Nơi đầu mặt là nơi quan trọng nhất của toàn thân.
Trong sách
“Linh khu tà khí tạng phủ bệnh hình” viết: “12 kinh mạch, 365 lạc, khí huyết
của nó đều từ mặt đi xuống khoang mũi. Tông khí của nó đi từ trên mũi xuống
khíu…Bởi vậy sự biến hoá bệnh lý của các chi khớp, tạng phủ đều phản ảnh ra ở 1
khu vực nhất định trên mặt. Mũi ở giữa mặt, xưa gọi là Minh Đường trong “Linh khu – Ngũ sắc” có ghi: “Ngũ
sắc độc quyết ở Minh Đường”, “Mũi ở giữa mặt là đường vận hành khí huyết của
toàn thân”.
Có 7 huyệt
chính giữa trán, mũi, môi trên. 17 huyệt đôi ở mũi, mắt, cạnh miệng, vùng gò
má, mang tai.
Huyệt được gọi
tên theo vùng – Thí dụ:
- Huyệt đầu mặt: Nằm ở giữa trán, trên 1/3 từ lông mày đến
chân tóc.
- Họng: Nằm ở 1/3 phía dưới từ giữa lông mày đến chân tóc.
- Phế: nằm ở điểm giữa đường nối đầu trong 2 cung lâu mày.
- Tâm: Nằm ở chỗ dưới cùng xương sống mũi.
- Can: Nằm ở phía dưới điểm cao nhất xương sống mũi.
- Tỳ: Nằm trên chỗ cao nhất của sống mũi.
- Tử cung – bàng quang: Nằm trên 1/3 trên rãnh nhân trung.
- Đởm: Nằm ở vùng phía dưới cạnh ngoài sống mũi.
- Vị: Nằm ở vùng liền cánh mũi…
- Tiểu trường, đại trường, vai, cánh tay nằm ở vùng gò má.
- Tay: Nằm phía dưới đằng
sau xương quyền (gò má)
- Thận: Nằm ở điểm gặp nhau khi nối 2 đường – 1 đường từ thái
dương xuống – 1 đường kẻ từ chân cánh mũi ra.
- Tiếng nói: Trùng với huyệt Thính cung – nằm phía trước nhĩ
bình.
- Đùi: Nằm 1/3 trên đường giữa dái tai và góc cổ dưới.
Nguyên tắc
chon huyệt để phòng chữa bệnh:
- Dựa vào chẩn đoán bệnh ở cơ quan, tạng phủ nào?
- Căn cứ vào điểm phản ứng trên mặt (đỏ, tái, đau nhức…)
- Cũng có thể biện chứng luận trị theo mối quan hệ tạng phủ
trong ngũ hành tương sinh và tương khắc.
Tóm lại Diện
châm là từ thời xa xưa con người đã khám phá ra các huyệt nằm trên mặt, các
huyệt này đại diện cho 1 vùng hay 1 chức năng nhất định của cơ thể.
Khi
cơ quan bị bệnh có thể phản ảnh ra ngoài bằng sự thay đổi màu sắc hay tính nhạy
cảm tại vùng đại diện của cơ quan đó. Cũng căn cứ vào đó, thày thuốc có thể tác
động châm cứu để điều chỉnh chức năng các cơ quan giống như trong châm cứu thể
châm./.